Thứ Bảy, 4 tháng 6, 2011

Đề cương tuyên truyền 100 năm Ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước (5/6/1911-5/6/2011) gắn với kỷ niệm 121 năm Ngày sinh của Người (19/5/1890 - 19/5/2011)


I. Những nhân tố ảnh hưởng đến quyết định ra đi tìm đường cứu nước của người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành.
1. Phong trào yêu nước chống Pháp diễn ra sôi nổi nhưng đều thất bại
Những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp bắt tay vào khai thác thuộc địa lần thứ nhất. Xã hội Việt Nam bắt đầu có những biến chuyển và phân hoá. Sự xâm nhập của chủ nghĩa tư bản Pháp đã làm nảy sinh trong xã hội Việt Nam hai giai cấp mới: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Cuộc vận động cải cách của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu ở Trung Quốc cũng có ảnh hưởng lớn đến Việt Nam. Các phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân ta diễn ra đa dạng, sôi nổi: phong trào có khuynh hướng dân chủ tư sản Đông Du, Đông kinh Nghĩa Thục, Duy Tân, Việt Nam Quang Phục Hội; phong trào chống sưu thuế của nông dân ở Trung kỳ; phong trào đánh Pháp như: vụ đầu độc binh lính Pháp ở Hà Nội, cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Yên Thế…
Các phong trào yêu nước chống Pháp trên đều thất bại. Nguyên nhân sâu xa là do thiếu đường lối chính trị đúng đắn, khoa học, thiếu sự lãnh đạo của một giai cấp tiên tiến. Giai cấp phong kiến, có vai trò tiến bộ nhất định trong lịch sử đã trở thành giai cấp phản động, bán nước, tay sai cho đế quốc. Giai cấp tư sản mới ra đời, còn non yếu với lực lượng kinh tế phụ thuộc và khuynh hướng chính trị cải lương, không có khả năng lãnh đạo cuộc đấu tranh chống đế quốc và phong kiến để giành độc lập tự do. Giai cấp nông dân và tiểu tư sản khao khát độc lập, tự do, hăng hái chống đế quốc và phong kiến, nhưng không thể vạch ra con đường giải phóng đúng đắn và không thể đóng vai trò lãnh đạo cách mạng. Cách mạng Việt Nam đứng trước cuộc khủng hoảng trầm trọng về đường lối cứu nước.
Nguyễn Tất Thành rất khâm phục tinh thần yêu nước của các sĩ phu, văn thân, chí sĩ xả thân vì nước, nhưng Người không tán thành đường lối cứu nước của các bậc tiền bối. Tư tưởng yêu nước của Nguyễn Tất Thành tuy lúc đó chưa gặp chủ nghĩa xã hội, nhưng đã thể hiện tầm vóc vượt trước quan điểm cứu nước đương thời. Người cho rằng, chủ trương của cụ Phan Chu Trinh yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương chẳng khác gì “đến xin giặc rủ lòng thương”; chủ trương của cụ Phan Bội Châu nhờ Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp chẳng khác nào “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”, chủ trương của cụ Hoàng Hoa Thám tuy thực tế hơn, nhưng không có hướng thoát rõ ràng, “còn mang nặng cốt cách phong kiến”.
Thất bại của các cụ Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh …nói lên một sự thật lịch sử là: không thể cứu nước trên lập trường phong kiến hay lập trường của giai cấp tư sản, tiểu tư sản. Các đường lối và phương pháp này đều không đáp ứng được yêu cầu giải phóng dân tộc trong điều kiện chủ nghĩa đế quốc đã trở thành hệ thống thế giới. Chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam đang đòi hỏi được đổi mới, đó là một nhu cầu cấp thiết của dân tộc lúc bấy giờ.
2. Những chuyển biến của tình hình chính trị thế giới
Vào nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã từ giai đoạn tự do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc và đã xác lập được sự thống trị trên phạm vi thế giới. Phần lớn các nước châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latinh đã trở thành thuộc địa và phụ thuộc của chúng. Chủ nghĩa đế quốc vừa tranh giành xâu xé, vừa hùa với nhau để nô dịch các dân tộc nhỏ bé. Cùng với những mâu thuẫn cơ bản trong xã hội tư bản - mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và tư sản, chủ nghĩa đế quốc làm phát sinh mâu thuẫn mới - mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc thực dân. Đời sống nhân dân ở các nước thuộc địa và phụ thuộc vô cùng cực khổ, trong đó có nhân dân Việt Nam dưới xiềng xích của chế độ thực dân Pháp. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc bắt đầu phát triển và có xu hướng lan rộng.
3. Phẩm chất và trí tuệ của Nguyễn Tất Thành
Nguyễn Tất Thành sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống hiếu học, một địa phương có truyền thống yêu nước. Từ lúc tuổi còn nhỏ, Người sớm được tiếp cận với các tư tưởng lớn của phương Đông, hấp thụ vốn văn hóa truyền thống của dân tộc, Hán học và bước đầu tiếp xúc với văn hoá phương Tây. Chứng kiến chứng kiến cảnh khổ cực của người dân mất nước, tinh thần đấu tranh bất khuất của cha anh, Người càng yêu nước, thương dân sâu sắc và hun đúc những hoài bão lớn lao. Vốn có tư chất thông minh, tinh thần ham học hỏi, khả năng tư duy độc lập, tính ham hiểu biết và nhạy bén với cái mới, Người bị lôi cuốn bởi khẩu hiệu “tự do, bình đẳng, bác ái” và thôi thúc bởi ý định tìm hiểu “cái gì ẩn dấu sau” những từ đẹp đẽ đó ở chính nước sinh ra khẩu hiệu đó. Những tư tưởng tiến bộ của cuộc cách mạng ở Pháp năm 1789, thành tựu văn minh, tiến bộ của nhân loại ở Pháp và các nước châu Âu khác, đã thúc đẩy Người muốn đến tận nơi tìm hiểu. Đó chính là những lý do Nguyễn Tất Thành quyết định chọn nước Pháp, chọn châu Âu làm điểm đến đầu tiên trong cuộc hành trình đi tìm đường cứu nước năm 1911.
II. Hành trình tìm đường cứu nước và những chuyển biến trong nhận thức về con đường giải phóng dân tộc của Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc
1. Hành trang ban đầu của Nguyễn Tất Thành khi ra nước ngoài là tri thức về văn hóa phương Đông và phương Tây, lòng yêu nước nhiệt thành, tiếp thu có chọn lọc con đường cứu nước của các nhà yêu nước lớp trước và một dự định rõ rệt, lớn lao, đó là “xem nước Pháp và các nước khác, sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào ta”, đó là dự định đi tìm con đường cứu nước, cứu dân. Ngày 5 tháng 6 năm 1911, trên con tàu “Đô đốc Latouche Tréville”, từ bến cảng Nhà Rồng của Thành phố Sài Gòn, Nguyễn Tất Thành đã lên đường sang Pháp. Người làm bất cứ việc gì để sống và hoạt động (phụ bếp dưới tàu, làm bánh trong các khách sạn, cào tuyết, đốt lò, chụp ảnh…). Gần mười năm, vừa lao động kiếm sống, vừa tiến hành khảo sát thực tiễn nhiều nước tư bản và các nước thuộc địa, khảo sát các cuộc cách mạng ở các nước Pháp, Anh, Mỹ… Nguyễn Tất Thành đã có nhận thức quan trọng là: cách mạng tư sản là những cuộc cách mạng vĩ đại, nhưng là những cuộc cách mạng chưa đến nơi. Nó đã phá tan gông xiềng phong kiến cùng những luật lệ hà khắc và những ràng buộc vô lý để giải phóng sức lao động của con người. Cách mạng tư sản xây dựng lên một chế độ mới tiến bộ hơn xã hội phong kiến. Nhưng cách mạng xong rồi dân chúng vẫn khổ, vẫn bị áp bức, bóc lột và vẫn mưu toan làm cách mạng. Từ đó, Người đi đến kết luận, chúng ta đổ xương máu để làm cách mạng thì không đi theo con đường cách mạng này. Nguyễn Tất Thành đã tìm ra những mặt trái của xã hội phương Tây, nhận ra “ở đâu cũng có người nghèo khổ như xứ sở mình” do ách áp bức, bóc lột dã man, vô nhân đạo của bọn thống trị. Điều đó đã giúp Người có một nhận thức quan trọng: nhân dân lao động trên toàn thế giới cần đoàn kết lại để đấu tranh chống kẻ thù chung là giai cấp thống trị; cùng nhau thực hiện nguyện vọng chung là độc lập, tự do.
2. Sống hoà mình cùng nhân dân lao động và phong trào đấu tranh của công nhân Pháp, Nguyễn Ái Quốc say sưa hoạt động cách mạng, viết báo, hội họp, tuyên truyền, cổ động. Năm 1917, Nguyễn Tất Thành tham gia hoạt động trong phong trào của những người Việt Nam yêu nước tại Pháp. Thành công của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 có ảnh hưởng rất lớn đến tình cảm và nhận thức của Người. Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng xã hội Pháp. Ngày 18/6/1919, với tên Nguyễn Ái Quốc, Người thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi bản yêu sách tới Hội nghị Vécxây yêu cầu về quyền tự do, dân chủ, bình đẳng dân tộc cho nhân dân An Nam. Tám yêu cầu không được chấp nhận, nhưng đã vạch trần bản chất giả dối của các cường quốc thống trị, đồng thời cũng đem lại cho Nguyễn Ái Quốc một nhận thức tỉnh táo là các dân tộc muốn được giải phóng chỉ có thể dựa vào sức lực của bản thân mình.
3. Ra đi tìm đường cứu nước với tuổi đời còn rất trẻ và từ một xã hội thuộc địa, nửa phong kiến, lúc đó Nguyễn Ái Quốc chưa có một ý niệm rõ ràng về giai cấp, đấu tranh giai cấp, đảng chính trị, chủ nghĩa Mác - Lênin... Từ những hoạt động thực tiễn trên và đọc “Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V.I.Lênin đăng trên báo L’Humanité tháng 7/1920, Người đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong bối cảnh bấy giờ, có nhiều trí thức Việt Nam sống tại Pháp, nhưng Người đã thể hiện tính vượt trội của tư tưởng khi nhận ra được chân lý lớn nhất của thời đại. Luận cương đã giải đáp cho Nguyễn Ái Quốc những băn khoăn về con đường giành độc lập, tự do cho dân tộc, trả lời câu hỏi ai là người lãnh đạo, lực lượng tham gia và mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng ở các nước thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc… Luận cương đã ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành thế giới quan cộng sản của Nguyễn Ái Quốc.
4. Quá trình tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin của Nguyễn Ái Quốc ngày càng có hệ thống và hoàn thiện khi Người tham gia Đảng Cộng sản Pháp, học tập ở Đại học phương Đông, sống trong không khí sục sôi ở trung tâm phong trào cộng sản ở Nga, hoạt động trong Quốc tế Cộng sản. Nhận thức của Người về sức mạnh của nhân dân lao động thế giới, về mối quan hệ giữa các dân tộc bị áp bức, giữa cách mạng ở các nước thuộc địa và các nước chính quốc trong cuộc đấu tranh chống đế quốc, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản của giai cấp công nhân, về chính quyền cách mạng và sử dụng bạo lực cách mạng… ngày càng sâu sắc và có những luận điểm bổ sung, phát triển, sáng tạo. Sự kiện Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp tháng 12/1920 là một mốc lịch sử quan trọng trong hành trình đi tìm đường cứu nước của Người, đánh dấu bước chuyển biến quyết định, nhảy vọt, thay đổi về chất trong nhận thức tư tưởng và lập trường chính trị của Người - từ một nhà yêu nước chân chính trở thành một chiến sĩ cộng sản. Đồng thời, sự kiện đó cũng đánh dấu một bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt Nam, mở đầu quá trình kết hợp đấu tranh giai cấp với đấu tranh dân tộc, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, tinh thần yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Từ đây, cách mạng Việt Nam bắt đầu đi vào quỹ đạo của cách mạng vô sản. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội bắt đầu hình thành.
5. Đầu năm 1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc). Tại đây, Người bắt đầu xây dựng những nhân tố bảo đảm cho cách mạng Việt Nam: truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, khơi dậy tinh thần đấu tranh của các tầng lớp nhân dân, xây dựng tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam, phát triển lực lượng cách mạng… Việc Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt do Người dự thảo được thông qua tại Hội nghị hợp nhất, chứng tỏ đến 1930, tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc về con đường cách mạng Việt Nam đã được hình thành cơ bản.
6. Sau hơn 30 năm xa Tổ quốc, ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc trở về nước để trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh cách mạng. Một trang mới mở ra trong cuộc đời cách mạng của Người và cũng là bước ngoặt mới cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam.
* Việc tìm ra con đường cứu nước, con đường phát triển của dân tộc của Nguyễn Ái Quốc có ý nghĩa lịch sử to lớn, đó là:
- Đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, với học thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học, Nguyễn Ái Quốc đã đặt nền móng cho lý luận cách mạng Việt Nam trong thời đại mới; chấm dứt khủng hoảng đường lối cứu nước triền miên từ giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX; tìm thấy đường lối phát triển đúng đắn cho dân tộc, phù hợp với trào lưu tiến hoá chung của nhân loại và xu thế của thời đại.
- Hồ Chí Minh đã đem ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin soi đường cho phong trào yêu nước, chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam, làm cho chủ nghĩa yêu nước vươn lên tầm thời đại, trở thành chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh, mà sau này biểu tượng sáng chói trong hai cuộc kháng chiến lừng lẫy của dân tộc chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, trong công cuộc tái thiết và phát triển đất nước theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Với việc tìm ra con đường cứu nước, phát triển của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đóng góp to lớn, thiết thực chuẩn bị cho việc mở ra một giai đoạn phát triển mới của phong trào cách mạng vô sản nói chung, phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc trên thế giới và châu Á nói riêng.
III. Vai trò quan trọng, quyết định của Hồ Chí Minh trước những bước ngoặt của cách mạng Việt Nam.
1. Truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào nước ta, hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, khởi thảo Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt - Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, xác định con đường của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội.
Xuất phát từ thực trạng đất nước, Nguyễn Ái Quốc không thành lập ngay đảng cộng sản mà thành lập một tổ chức cách mạng theo khuynh hướng mácxít để qua đó dần dần đưa chủ nghĩa Mác - Lênin vào quần chúng lao động, đó là Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Trong các tác phẩm, các bài báo, bài giảng của mình, Người đã kết hợp việc phổ biến lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin với việc giới thiệu những phương hướng cơ bản của cách mạng Việt Nam, vạch cho nhân dân ta con đường đi đến độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Đường Kách mệnh là một trong những tác phẩm có giá trị to lớn trên phương diện lý luận và thực tiễn, đóng vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin ở Việt Nam những năm 20. Người tổ chức chuyển tài liệu, sách vở, báo chí về nước; gấp rút đào tạo cán bộ làm nòng cốt cho phong trào cách mạng; tổ chức tuyên truyền, cổ động tư tưởng cứu nước trong nhân dân; mở lớp huấn luyện chính trị tại Quảng Châu để trang bị cho các học viên những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, về những nguyên tắc hoạt động bí mật và kỹ năng thực hành các công việc vận động quần chúng; chọn những học viên ưu tú kết nạp vào nhóm bí mật, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và cử về nước gây dựng phong trào…Việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin đã thúc đẩy sự phát triển những tổ chức cộng sản, tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam sau này. Phong trào “vô sản hoá” đã góp phần đẩy nhanh quá trình giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin của giai cấp công nhân. Phong trào đấu tranh của nhân dân lao động được lãnh đạo, liên kết với nhau thành một làn sóng mạnh mẽ. Chủ nghĩa Mác - Lênin do Nguyễn Ái Quốc có công truyền bá, đã thật sự chiếm lĩnh được lòng tin của phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
Năm 1930, việc hợp nhất thành công các tổ chức cộng sản thành một đảng cộng sản duy nhất là công lao to lớn của Nguyễn Ái Quốc. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhất là đã vạch ra đường lối cách mạng đúng đắn (qua Chánh cương, Sách lược), có hệ thống tổ chức thống nhất, chặt chẽ, rộng khắp cả nước, là một bước ngoặt quyết định của lịch sử cách mạng Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc - người tìm ra con đường cứu nước, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam; người tổ chức, sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam; người rèn luyện, cán bộ, đảng viên theo chuẩn mực của đảng Mác - Lênin chân chính, trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là người lãnh đạo, người đày tớ trung thành của nhân dân.
2. Bằng nhạy cảm chính trị thiên tài, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy tình hình thế giới có chuyển biến lớn, Người gấp rút trở về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng. Người triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương Tám (5/1941). Đây là Hội nghị hoàn chỉnh thêm một bước sự chuyển hướng chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam được vạch ra từ Hội nghị Trung ương Sáu (11/1939). Tại Hội nghị này, Nguyễn Ái Quốc đã xác định nhiệm vụ dân tộc phải được đặt lên hàng đầu. Người khẳng định: Lúc này nếu quyền lợi của dân tộc không đòi lại được thì quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được. Người chỉ đạo thành lập một mặt trận rộng rãi và có tên thích hợp hơn Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương để tập hợp lực lượng chống đế quốc. Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) ra đời với Chương trình cứu nước do chính Hồ Chí Minh dự thảo. Người chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng căn cứ địa, tích cực chuẩn bị mọi mặt để sẵn sàng khởi nghĩa giành chính quyền. Đón bắt kịp thời thời cơ, Người và Đảng ta đã triệu tập Hội nghị toàn quốc của Đảng và Đại hội Quốc Dân ngày 16 và 17/8/1945 thống nhất ý chí toàn dân, quyết định Tổng khởi nghĩa, làm nên thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám 1945.
3. Nắm vững vị trí quan trọng của chính quyền cách mạng, với Tuyên ngôn độc lập, Người khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đặc biệt, với việc tổ chức thành công cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và sự ra đời Hiến pháp 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng lập Nhà nước cách mạng - Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Suốt chặng đường sau đó, bằng tầm nhìn văn hoá sâu rộng, kinh nghiệm chính trị phong phú và sáng tạo, Người đã lãnh đạo, tổ chức và xây dựng Nhà nước kiểu mới của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam, luôn phấn đấu vì độc lập tự do của dân tộc và hạnh phúc của nhân dân.
4. Với phương châm kháng chiến “toàn dân, toàn diện”, “trường kỳ và tự lực cánh sinh”, “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”; với ý chí “không có gì quý hơn độc lập tự do”, “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, Người đã hiệu triệu được lòng yêu nước, ý chí quật cường của nhân dân Việt Nam trong hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Những tư tưởng chỉ đạo sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta trong thời điểm đất nước “ngàn cân treo sợi tóc” với thù trong, giặc ngoài năm 1946; trong Nghị quyết Trung ương 15 (tháng 1/1959) về đường lối cách mạng miền Nam; trong chỉ đạo thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược ở hai miền Nam - Bắc và cả tinh thần “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”… là những nhân tố quan trọng, quyết định làm nên thắng lợi và thể hiện tinh thần nhân văn cao cả của dân tộc Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam trong xu thế thời đại, phát huy được sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong cuộc chiến đấu vì chính nghĩa của dân tộc. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - lá cờ bách chiến, bách thắng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân giương cao, đưa Việt Nam thành lương tâm và khí phách của thờì đại.
5. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng tạo lý luận về chủ nghĩa xã hội của học thuyết Mác - Lênin vào điều kiện Việt Nam. Chủ nghĩa xã hội - con đường phát triển của dân tộc mà Người đã lựa chọn, đang từng bước được hiện thực hóa sinh động trên đất nước Việt Nam.
IV. Những đóng góp to lớn của Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác-Lênin và cách mạng vô sản thế giới.
1. Hồ Chí Minh - nhà chính trị, nhà tư tưởng, người chiến sĩ cộng sản lỗi lạc của phong trào cộng sản, phong trào công nhân quốc tế: Từ khi rời Tổ quốc đi tìm con đường giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh sớm nhận thức muốn hoạt động cách mạng cần phải tham gia các tổ chức và hoà mình vào phong trào đấu tranh cách mạng. Người đã hoạt động trong phong trào của người Việt Nam yêu nước và phong trào công nhân Pháp, tham gia Đảng Xã hội Pháp; sinh hoạt trong Câu lạc bộ Phôbua; tham gia sáng lập Hội Liên hiệp thuộc địa; chủ nhiệm kiêm chủ báo Người cùng khổ; tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp; tham gia Quốc tế Cộng sản, hoạt động trong Quốc tế Nông dân; tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức… Những hoạt động đầy nhiệt huyết của Người - với tư cách nhà chính trị, nhà tư tưởng, người chiến sĩ cộng sản quốc tế đã in dấu đậm nét trong lịch sử cách mạng vô sản thế giới. Trong quá trình hoạt động cách mạng, nhiều lần phải sống trong thiếu thốn, khổ cực, nguy hiểm, tù đày, thậm chí bị hiểu lầm, nhưng trong hoàn cảnh nào, Người cũng có một niềm tin sắt son vào chủ nghĩa Mác - Lênin, nêu cao ý chí, bản lĩnh và phẩm chất của người chiến sĩ cộng sản.
2. Hồ Chí Minh có công truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước trên thế giới. Nhiều bài báo của Người đã được đưa vào tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, xuất bản năm l925, một công trình nghiên cứu về bản chất của chủ nghĩa thực dân, thức tỉnh và cổ vũ nhân dân các nước thuộc địa đứng lên tự giải phóng. Hoạt động trong tổ chức Quốc tế Cộng sản, Người tích cực đưa lý luận Mác - Lênin vào phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa; kiên trì bảo vệ, phát triển sáng tạo những quan điểm của V.I Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa; hướng sự quan tâm của Quốc tế Cộng sản tới phong trào giải phóng dân tộc. Với trách nhiệm là Ủỷ viên Ban phương Đông của Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản, Người hướng dẫn và xây dựng phong trào cách mạng, phong trào cộng sản ở các nước châu Á và xúc tiến thành lập đảng cộng sản ở Việt Nam.
3. Sức lan toả của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam do Hồ Chí Minh lãnh đạo đối với các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc rất mạnh mẽ. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc và chủ nghĩa xã hội đã ảnh hưởng sâu sắc tới phong trào cách mạng ở hàng trăm nước thuộc địa và phụ thuộc ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh. Hàng loạt các phong trào giải phóng dân tộc liên tiếp nổ ra ở các nước Á, Phi và Mỹ Latinh rộng lớn trong suốt các thập kỷ 50, 60 và 70 của thế kỷ XX. Hệ thống thuộc địa thế giới đã từng được chủ nghĩa thực dân đế quốc xây dựng ròng rã trong 500 năm đã nhanh chóng sụp đổ hoàn toàn chỉ trong vòng chưa đầy 50 năm sau mốc son Việt Nam mang đậm dấu ấn Hồ Chí Minh.
4. Chủ tịch Hồ Chí Minh có những đóng góp quan trọng với lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, thể hiện ở một số nội dung chủ yếu sau: Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa không hoàn toàn phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở các nước chính quốc, nhân dân các dân tộc ở các nước thuộc địa có thể đứng lên tự giải phóng chính mình và cuộc cách mạng có thể thắng lợi trước. Đây là những cống hiến quan trọng vào kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin.
Xuất phát từ tình hình ở các nước tư bản, Lênin đã nêu luận điểm Đảng Cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân. Xuất phát từ tình hình Việt Nam, Hồ Chí Minh nhận thấy việc ra đời của Đảng Cộng sản ở đây nếu chỉ kết hợp chủ nghĩa Mác -Lênin với phong trào công nhân thì chưa đủ, vì giai cấp công nhân còn nhỏ bé và phong trào còn non yếu, do đó phải kết hợp cả với phong trào yêu nước rộng lớn của các tầng lớp nhân dân đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Đảng cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Hồ Chí Minh còn đi đến kết luận: Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam. Đây là những luận điểm mới của Hồ Chí Minh, bổ sung vào học thuyết về Đảng Cộng sản của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Các Mác, Ăngghen xác định, quần chúng làm cách mạng là giai cấp công nhân, nông dân. Lênin, trong cách mạng vô sản Nga, xác định quần chúng cách mạng là công nhân, nông dân và binh lính. Đối với Hồ Chí Minh, lực lượng cách mạng là “cả quần chúng”, bao gồm: giai cấp công nhân - giai cấp lãnh đạo cách mạng, giai cấp nông dân - cùng với công nông là gốc của cách mạng, tiểu tư sản, trí thức, phú nông, trung, tiểu địa chủ, tư sản dân tộc, các cá nhân yêu nước, “Bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới”. Quan điểm này của Người không chỉ đúng trong cách mạng giải phóng dân tộc mà còn trong sự nghiệp xây dựng đất nước ngày nay.
Hồ Chí Minh có những sáng tạo độc đáo trong các bước đi giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc; luận giải khoa học, sâu sắc về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, ưu tiên giải quyết vấn đề dân tộc trước, giải quyết vấn đề dân chủ từng bước. Bảo vệ nền độc lập dân tộc đã giành được bằng biện pháp hòa bình, nhưng khi kẻ thù đã dùng chiến tranh xâm lược để áp đặt sự nô dịch mới, thì cần dựa vào và phát huy sức mạnh của cả dân tộc để bảo vệ nền độc lập dân tộc. Để bảo vệ nền độc lập dân tộc chân chính, cần xây dựng một xã hội mới là xã hội xã hội chủ nghĩa. Độc lập dân tộc để xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công và xây dựng chủ nghĩa xã hội để bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc.
Trong di sản tư tưởng của Người, có cả một hệ thống những chỉ dẫn khoa học về cách thức, biện pháp, bước đi trong thực hiện công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh thấm nhuần sâu sắc không chỉ tính khoa học, cách mạng mà còn có nhiều luận điểm bổ sung từ góc độ đạo đức, văn hoá, nhân văn.
V. Phát huy thắng lợi vĩ đại của đất nước trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội; thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011); tiếp tục triển khai thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
1. Đảng ta kế thừa và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, luôn tìm tòi, làm sáng tỏ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, khẳng định quyết tâm tiếp nối con đường đó trong các văn kiện đại hội của Đảng, nhất là trong các Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”. Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ là: “xây dựng được về cơ bản nền kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, hạnh phúc”.
2. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nêu cao tinh thần trách nhiệm và nỗ lực thực hiện con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn, nhất là những điều căn dặn trong Di chúc của Người về điều kiện bảo đảm sự bền vững của con đường đó: bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tổ chức một đời sống xã hội ưu việt, đầy tính nhân văn và thực sự đem cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, bồi dưỡng thế hệ trẻ sống có lý tưởng, có hoài bão, có phẩm chất đạo đức trong sáng, có lòng yêu nước nồng nàn để tiếp tục sự nghiệp cách mạng của ông cha, thực hiện đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế…
3. Hơn bốn năm qua, Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đã được triển khai sâu rộng trong các tổ chức của hệ thống chính trị và toàn xã hội và đã tạo được những chuyển biến quan trọng. Để phát huy những kết quả đó, trách nhiệm của mỗi cấp uỷ, các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, mỗi cán bộ đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân cần tiếp tục thực hiện có hiệu quả Cuộc vận động này, gắn liền với những nhiệm vụ về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
4. Hiện nay, các thế lực thù địch đang tấn công vào chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng tìm mọi cách xuyên tạc, bôi nhọ cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng của Người với ý đồ đen tối “lật đổ thần tượng Hồ Chí Minh”, đánh vào nền tảng tư tưởng của Đảng ta, phủ định con đường cách mạng Việt Nam... Trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và nhân dân là bảo vệ những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên quyết đấu tranh bác bỏ mọi luận điệu thâm hiểm của các thế lực thù địch, phản động. Tiếp tục nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới. Đó chính là sự bảo vệ đúng đắn nhất chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng ta, vững bước đi theo con đường của Hồ Chí Minh đã chọn, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Kỷ niệm sự kiện 100 năm Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước gắn với kỷ niệm 121 năm Ngày sinh của Người, chúng ta càng hiểu rõ hơn về cuộc đời cách mạng và tư tưởng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây cũng dịp cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu sâu sắc hơn về những cống hiến to lớn của Người đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam và thế giới. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nguyện thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội do Đảng hoạch định tại Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, được bổ sung, phát triển năm 2011. Đó là tấm lòng tri ân sâu sắc của toàn dân tộc đối với công lao vĩ đại của Lãnh tụ Hồ Chí Minh.
BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG

Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ nhằm xây dựng và chỉnh đốn đảng


Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khoá VII đã họp từ ngày 18 đến ngày 29-6-1992 tại Hà Nội. Hội nghị đã bàn bạc và thống nhất ban hành Nghị quyết số 03 - NQ/TW về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng. 

Đánh giá tình hình trong nước và quốc tế từ sau Đại hội VII, Hội nghị nhận định, từ sau Đại hội VII đến nay, cách mạng nước ta tiếp tục phát triển, đứng trước thời cơ mới và những thách thức mới. Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô đã làm thay đổi lớn cục diện chính trị thế giới. Chủ nghĩa xã hội lâm vào thoái trào, phong trào cách mạng, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế gặp khó khăn nghiêm trọng. Chủ nghĩa đế quốc đẩy mạnh chống phá các nước xã hội chủ nghĩa và các lực lượng cách mạng, hòng xoá bỏ chủ nghĩa xã hội, mưu toan thiết lập một "trật tự thế giới mới" dưới sự khống chế của chúng…. Tình hình đó đã gây ra cho chúng ta những khó khăn mới rất to lớn, đồng thời với đó, cũng cho chúng ta có thêm nhiều bài học về chống nguy cơ sai lầm về đường lối, vi phạm nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, sai lầm về lựa chọn và bố trí cán bộ, tệ quan liêu xa rời quần chúng.
Tuy nhiên, cách mạng nước ta tiếp tục phát triển, tình hình chính trị ổn định, tinh thần đoàn kết trong Đảng và trong nhân dân được tăng cường. Đảng ta đã tỏ rõ bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, tinh thần độc lập tự chủ và khả năng nhạy bén, sáng tạo, lãnh đạo nhân dân vượt qua nhiều khó khăn to lớn, đưa công cuộc đổi mới tiếp tục phát triển đúng hướng và đi vào chiều sâu, giữ vững ổn định chính trị, nền kinh tế có mặt phát triển và có thêm nguồn lực vật chất mới.
Những thành tựu bước đầu của công cuộc đổi mới càng chứng tỏ đường lối của Đảng ta là đúng đắn, cán bộ, đảng viên và nhân dân ta đoàn kết phấn đấu vượt qua mọi khó khăn thử thách, thực hiện sáng tạo đường lối của Đảng.
Tuy nhiên, Hội nghị cũng thẳng thắn thừa nhận những khuyết điểm và nhược điểm, đó là: tổ chức và kỷ luật của Đảng lỏng lẻo, Trong Đảng có một bộ phận giảm sút ý chí chiến đấu, phai nhạt lý tưởng, dao động, mất lòng tin, Chậm đổi mới phương thức lãnh đạo, hoạt động của không ít cấp uỷ lúng túng trước tình hình mới. …
Nói về nguyên nhân của những yếu kém, khuyết điểm đó, Hội nghị nhấn mạnh, do chúng ta còn buông lỏng các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, trước hết là nguyên tắc tập trung dân chủ. Công tác cán bộ yếu kém kéo dài, không kịp thời tổng kết công tác xây dựng Đảng, công tác lãnh đạo Nhà nước và công tác vận động nhân dân để có những chủ trương, biện pháp thích ứng…
Nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới đòi hỏi Đảng ta phải khẩn trương tự đổi mới, tự chỉnh đốn. Đây là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng và cấp bách, có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, đối với vận mệnh chế độ ta và Đảng ta.
Hội nghị xác định mục tiêu của đổi mới, chỉnh đốn Đảng là nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, bảo đảm thực hiện có kết quả các nhiệm vụ chính trị do Đại hội VII đề ra, trong đó trọng tâm là phát triển kinh tế, làm cho dân giàu, nước mạnh, giữ vững ổn định chính trị. Đổi mới và chỉnh đốn Đảng phải bảo đảm nguyên tắc quán triệt và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Phương châm của đổi mới và chỉnh đốn Đảng là gắn với đổi mới các lĩnh vực của đời sống xã hội. Có bước đi và phương pháp phù hợp. Làm có trọng điểm, từ lãnh đạo đến cán bộ đảng viên, giải quyết tốt những vấn đề có tầm vĩ mô đi đôi với củng cố cơ sở.
Về chủ trương, giải pháp đổi mới và chỉnh đốn Đảng, Hội nghị nhấn mạnh bốn nội dung quan trọng sau:
Một là, tăng cường công tác xây dựng Đảng về chính trị và tư tưởng.
Nâng cao bản lĩnh chính trị, trí tuệ và năng lực lãnh đạo của Đảng. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, đẩy mạnh công tác lý luận, tiếp tục cụ thể hoá và phát triển các quan điểm và đường lối của Đại hội VII, từng bước xác định rõ hơn con đường và giải pháp đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Xây dựng cho cán bộ, đảng viên niềm tin và ý chí kiên định lý tưởng cách mạng, kiên định mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; Tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân; Nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, chống “diễn biến hoà bình”.
Hai là, chỉnh đốn Đảng về tổ chức.
Thực hiện nghiêm ngặt các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, trước hết là nguyên tắc tập trung dân chủ, ngăn chặn và khắc phục tệ vô tổ chức, vô kỷ luật, độc đoán, chuyên quyền trong Đảng; Chấn chỉnh hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng ở các cấp; lập ban cán sự Đảng ở Chính phủ, các bộ, các uỷ ban Nhà nước…; chỉnh đốn tổ chức cơ sở Đảng, xây dựng củng cố các chi bộ theo địa bàn dân cư.
Ba là, tạo bước chuyển biến quan trọng về công tác cán bộ.
Đây là khâu then chốt có ý nghĩa quyết định toàn bộ sự nghiệp cách mạng. Phải xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm nhiệm vụ; Sắp xếp, điều chỉnh, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ hiện có và chuẩn bị đội ngũ kế cận; Thực hiện phân công, phân cấp cán bộ hợp lý; Đổi mới chính sách cán bộ.
Bốn là, đổi mới và tăng cường công tác vận động nhân dân, củng cố mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân.
Các cấp uỷ đảng cần khảo sát tình hình đời sống và tâm trạng các tầng lớp nhân dân, đề ra những nhiệm vụ tiếp tục thực hiện nghị quyết về công tác vận động nhân dân của địa phương và ngành mình, phổ biến kinh nghiệm của những điển hình tiên tiến
Năm là, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Là đảng cầm quyền, Đảng ta có trách nhiệm lãnh đạo tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong tình hình mới, cần xác định rõ mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước và các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, có phương thức thích hợp để nâng cao chất lượng và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, phát huy mạnh mẽ vai trò, hiệu lực của Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, xây dựng một hệ thống chính trị hoạt động năng động, có hiệu lực và hiệu quả.
Hội nghị khẳng định, Đảng ta có kinh nghiệm là cứ mỗi lần gặp khó khăn lại biết tự tổ chức, chỉnh đốn đội ngũ để tiến lên. Chúng ta tin tưởng rằng, với quyết tâm cao và những kinh nghiệm bước đầu đã có, sau Hội nghị Trung ương này, Đảng ta nhất định sẽ khắc phục được các thiếu sót, vượt qua mọi khó khăn, tạo ra bước chuyển biến tích cực trong quá trình đổi mới và chỉnh đốn Đảng, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng hiện nay, xứng đáng với niềm tin và lòng mong đợi của nhân dân cả nước.
Hội nghị kêu gọi toàn Đảng, toàn dân đoàn kết, phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ VII và các Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai, ba của Ban Chấp hành Trung ương khoá VII./.





*
*    *

Chỉ thị số 10-CT/TW, ngày 30/3/2007 của Ban Bí thư 
về nâng cao chất lượng sinh hoạt ở chi bộ


      Trong những năm qua, Ban Chấp hành Trung ương Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã có nhiều chủ trương giải pháp về xây dựng, củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo sức chiến đấu của tổ chức cơ sơ đảng và đội ngũ cán bộ đảng viên, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương các cấp uỷ, tổ chức đảng đã tập trung lãnh đạo, tạo được một số chuyển biến tích cực về công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bô, đảng viên.
      Tuy nhiên, vẫn còn không ít tổ chức cơ sở đảng và chi bộ yếu kém; một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả đảng viên là cán bộ lãnh đạo quản lý ở các cấp, suy thoái về phẩm chất chính trị và đạo đức, lối sống; nhiều cấp ủy chi bộ chưa thực hiện nghiêm túc chế độ sinh hoạt đảng buông lỏng công tác quản lý, giáo dục đảng viên; nội dung sinh hoạt chi bộ còn nghèo nàn thiếu nội dung chính trị, tư tưởng cụ thể; tính lãnh đạo, tính giáo dục, tính chiến đấu, tinh thần tự phê bình, phê bình yếu, ý thức tổ chức kỷ luật yếu kém; tinh thần đoàn kết và tình thương yêu đồng chí bị giảm sút; chi bộ chưa thực sự là nơi sinh hoạt tư tưởng để cấp uỷ nắm và hiểu tâm tư nguyện vọng của đảng viên; chi bộ chưa thể hiện tốt vai trò là nơi lãnh đạo, giáo dục, quản lý, giám sát và rèn luyện đội ngũ đảng viên. Tình hình đó làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, giảm năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ngay từ chi bộ.
      Để khắc phục những thiếu sót, khuyết điểm trên góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, Ban Bí thư ra Chỉ thị về nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ.
I - MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
      1Làm cho các cấp uỷ tổ chức đảng và đảng viên nhận thức sâu sắc về vai trò, vị trí quan trọng của tổ chức cơ sơ đảng và của chi bộ ý nghĩa và tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ đối với việc nâng cao năng lực lãnh đạo sức chiến đấu của tổ chức cơ sơ đảng và đội ngũ cán bộ đảng viên theo tinh thần Nghị quyết Đại hội X của Đảng.
      2. Viêc nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ phải gắn với thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, làm cho nội dung sinh hoạt chi bộ phong phú, thiết thực, bảo đảm cho  mọi đảng viên nâng cao nhận thức, nắm bắt kịp thời, tự giác chấp hành nghiêm túc các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; thực hiện tốt nghị quyết của chi bộ và của cấp uỷ cấp trên, để chi bộ thực sự là nơi trực tiếp lãnh đạo, quản lý giáo dục, rèn luyện và bồi dưỡng cán bộ, đảng viên.
3. Thông qua sinh hoạt chi bộ, làm cho mọi đảng viên nâng cao ý thức trách nhiệm, tích cực học tập, tu dưỡng rèn luyện và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, thực hiện tốt 4 nhiệm vụ đảng viên và nhiệm vụ cụ thể do cấp trên và chi bộ giao; cấp ủy nắm chắc tình hình đảng viên, có biện pháp cụ thể để xây dựng chi bộ trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, của chi bộ và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.
II - NỘI DUNG, BIỆN PHÁP
      1. Các ấp uỷ và đảng viên trong các tổ chức cơ sở đảng phải nghiên cứu, quán triêt sâu sắc, thưc hiện đúng Điều lệ Đảng và các quy định của Ban Bí thư về chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng, tạo sự thống nhất và nâng cao nhận thức về vị trí nền tảng, vai trò hạt nhân chính trị của tổ chức cơ sở đảng và của chi bộ.
      2. Cấp uỷ, chi bộ trong các tổ chức cơ sở đảng phải thực hiện nghiêm túc chế độ sinh hoạt đảng theo Điều lệ Đảng. Nội dung sinh hoạt chi bộ phải thực hiện đúng nguyên tắc để tổ chức và sinh hoạt đảng, bảo đảm tính lãnh đạo, tính giáo dục và tính chiến đấu, để mọi đảng viên hiểu và xác định rõ vị trí, nhiệm vụ của mình trong thời kỳ tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế. Sinh họat chi bộ phải kịp thời phổ biến quán triệt nghị quyết và sự chỉ đạo của cấp uỷ cấp trên, các chủ trương, chính sách pháp luật mới của Đảng và Nhà nước, tình hình thời sự trong và ngoài nước cho đảng viên; tập trung thảo luận thẳng thắn và giải quyết những vấn đề cụ thể, thiết thực, phù hợp với chức năng nhiệm vụ của chi bộ đáp ứng tâm tư, nguyện vọng chính đáng cuả đảng viên và quần chúng.
3. Trong sinh hoạt chi bộ phải thực sự mở rộng và phát huy dân chủ, nhất là việc thảo luận, quyết định những vấn đề thuộc chức năng nhiệm vụ của chi bộ và trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi của đảng viên, tạo được không khí cởi mở chân thành để mọi cán bộ, đảng viên bày tỏ chính kiến, tâm tư, nguyện vọng của mình; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật, đề cao tinh thần tự phê bình và phê bình, bảo vệ những đảng viên thẳng thắn đấu tranh chống các biểu hiện sai trái, tiêu cực, tăng cường sự đoàn kết, thống nhất và tình thương yêu đồng chí trong Đảng. Đảng viên là cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp phải thực sự gương mẫu trong sinh hoạt chi bộ để mọi người noi theo.
4. Trước khi sinh hoạt chi bộ, chi uỷ mà trước hết là bí thư chi bộ phải chuẩn bị kỹ nội dung trong đó chú trọng một số vấn đề sau:
- Đánh giá tình hình tư tưởng và những diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên, quần chúng thuộc phạm vi lãnh đạo của chi bộ; kết quả thực hiện nhiệm vụ của chi bộ trong tháng; tình hình đảng viên thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và các nhiệm vụ được cấp trên và chi bộ phân công.
- Tổng hợp ý kiến của đảng viên, quần chúng đóng góp cho sự lãnh đạo của chi bộ, vai trò tiên phong gương mẫu và phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên ở địa phương, cơ quan, đơn vị và thông báo để chi bộ biết nhằm phát huy ưu điểm, có biện pháp phòng ngừa ngăn chặn và khắc phục khuyết điểm, giải quyết kịp thời những vụ việc tiêu cực.
- Việc xác định nhiệm vụ của chi bộ trong tháng tới cần tập trung vào các vấn đề trọng tâm, cụ thể, bức xúc trước mắt, đồng thời phân công nhiệm vụ phù hợp với khả năng của đảng viên để thực hiện có hiệu qủa các nhiệm vụ đề ra.
5. Thông qua sinh hoạt cho bộ hằng tháng, cấp uỷ phải nắm được tình hình tư tưởng, phẩm chất đạo đức, lối sống và kết quả thực hiện nhiệm vụ của đảng viên, kể cả đảng viên do cấp uỷ cấp trên quản lý; kịp thời bồi dưỡng, khen thưởng những đảng viên gương mẫu, có thành tích xuất sắc và giúp đỡ, giáo dục, xử lý những đảng viên có thiếu sót, khuyết điểm hoặc vi phạm nguyên tắc sinh hoạt đảng và tiêu chuẩn đảng viên.
6. Ngoài các buổi sinh hoạt chi bộ định kỳ, tùy điều kiện nhiệm vụ cụ thể, chi ủy cần lựa chọn một số vấn đề mới, phù hợp với nhiệm vụ của chi bộ và chức trách, nhiệm vụ của đảng viên để tổ chức sinh hoạt theo chuyên đề nhằm tập trung sự lãnh đạo của chi bộ, nâng cao kiến thức, năng lực và phẩm chất đạo cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.
7. Thường xuyên củng cố, kiện toàn chi ủy đủ số lượng cần thiết, có năng lực, trình độ, phẩm chất đạo đức và phương pháp công tác đảng. Bầu và bố trí đồng chí bí thư chi bộ đủ phẩm chất đạo đức, năng lực, trình độ và uy tín cao, nhiệt tình với công tác đảng để thực sự là người đứng đầu cấp ủy, chi bộ.
III - TỔ CHỨC THỰC HIỆN
- Các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương chỉ đạo các cấp ủy đánh giá tình hình sinh hoạt chi bộ trong các tổ chức cơ sở đảng hiện nay; xác định rõ những ưu điểm, khuyết điểm và nguyên nhân, nhất là nguyên nhân chủ quan; đề ra giải pháp cụ thể, thiết thực để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ.
2. Căn cứ Chỉ thị này, các cấp ủy đảng xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện cho phù hợp với tình hình, đặc điểm của chi bộ trong các loại hình tổ chức cơ sở đảng; cấp uỷ cấp trên thường xuyên theo dõi, hướng dẫn, chỉ đạo và định kỳ kiểm tra việc tổ chức sinh hoạt chi bộ ở cơ sở, coi trọng việc sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm và nhân rộng nhưng điển hình tiên tiến.
3. Chỉ thị này được triển khai thực hiện gắn với việc thực hiện cuộc vận động ''Học tâp và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Hằng năm, vào dip kỷ niệm ngày thành lập Đảng, các cấp uỷ tiến hành đánh giá, rút kinh nghiệm và tiếp tục nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Việc tổng kết thực hiện Chỉ thị này đươc tiến hành vào dịp kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Đảng (3-2-2010).
4. Ban Tổ chức Trung ương chủ trì, phối hợp với các ban đảng liên quan ở Trung ương hướng dẫn nội dung sinh hoạt của từng loại hình cơ sơ đảng, theo dõi, kiểm tra việc thực hiện Chỉ thị, định kỳ báo cáo Ban Bí thư.
Chỉ thị này phổ biến đến các chi bộ để thực hiện./.

T/M BỘ CHÍ TRỊ
(đã ký)
TRƯƠNG TẤN SANG


*
*    *
Hướng dẫn số 05-HD/BTCTW, ngày 25/5/2007 của Ban Tổ chức Trung ương 
về nội dung sinh hoạt chi bộ trong các loại hình tổ chức cơ sở đảng

Thực hiện Chỉ thị số 10-CT/TW ngày 30-3-2007 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về Nâng cho chất lượng sinh hoạt chi bộ, Ban Tổ chức Trung ương hướng dẫn nội dung sinh hoạt chi bộ trong các loại hình tổ chức cơ sở đảng như sau:
I. NHỮNG NỘI DUNG CHUNG
Chi uỷ, chi bộ (chi bộ cơ sở, chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở) trong các loại hình tổ chức cơ sở đảng cần thực hiện tốt các yêu cầu và nội dung sau:
1. Thực hiện nghiêm túc chế độ sinh hoạt định kỳ mỗi tháng một lần theo quy định của Điều lệ Đảng (tuỳ tình hình, đặc điểm của từng chi bộ mà quy định thời gian sinh hoạt cho phù hợp). Sinh hoạt chi ủy, chi bộ phải quán triệt và thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc của Đảng, thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của chi bộ; bảo đảm tính lãnh đạo, tính giáo dục và tính chiến đấu.
2- Trong sinh hoạt chi bộ cần thường xuyên đánh giá tình hình triển khai và kết quả thực hiện các nhiệm vụ của chi bộ; mở rộng và phát huy dân chủ, nhất là khi thảo luận, quyết định những vấn đề thuộc chức năng, nhiệm vụ của chi bộ và liên quan đến trách nhiệm, quyền lợi, nghĩa vụ của đảng viên tạo được không khí cởi mở, chân thành để mọi đảng viên thể hiện chính kiến, tâm tư, nguyện vọng của mình: nâng cao ý thức tổ chức, kỷ luật, tinh thần tự phê bình và phê bình, bảo vệ những đảng viên thẳng thắn đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tiêu cực; tăng cường đoàn kết, thống nhất và tình thương yêu đồng chí trong chi bộ.
3- Thông qua sinh hoạt chi bộ làm cho mọi đảng viên (kể cả đảng viên đo cấp ủy cấp trên quản lý) nâng cao nhận thức, ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần trách nhiệm, tích cực học tập, rèn luyện, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, thực hiện tốt bốn nhiệm vụ của người đảng viên và các nhiệm vụ được chi bộ phân công; cấp uỷ nắm được tình hình tư tưởng, phẩm chất đạo đức, lối sống của đảng viên, có biện pháp cụ thể để xây dựng chi bộ trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.
4- Sinh hoạt chi bộ hằng tháng cần tập trung thảo luận và giải quyết những vấn đề cụ thể, thiết thực, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của chi bộ đáp ứng nguyện vọng chính đáng của đảng viên, quần chúng. Trình tự và nội dung sinh hoạt cụ thể như sau:
4 1. Công tác chuẩn bị:
- Căn cứ chức năng, nhiệm vụ của chi bộ và sự chỉ đạo của cấp ủy cấp trên, đồng chí bí thư chi bộ (hoặc đồng chí chi ủy viên được phân công) dự kiến nội dung, chương trình và thời gian sinh hoạt.
- Chi ủy họp thống nhất đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ tháng trước, đề ra nhiệm vụ tháng tới; phân công chuẩn bị nội dung, tính thời gian và lựa chọn hình thức sinh hoạt cho phù hợp (sinh hoạt nhiều nội dung hay đi sâu vào một chuyên đề).
- Chi ủy thông báo trước (ít nhất một ngày) cho đảng viên biết nội dung, thời gian và địa điểm sinh hoạt (nếu chưa có quy định ngày họp định kỳ hằng tháng).
4.2. Mở đầu buổi sinh hoạt, bí thư chi bộ (hoặc đồng chí được phân công chủ trì) thay mặt chi ủy tiến hành các việc sau:
- Thông báo tình hình đảng viên của chi bộ: tổng số đảng viên (chính thức dự bị); số đảng viên được miễn sinh hoạt, công tác; số đảng viên có mặt dự họp, số đảng viên vắng mặt và lý do. Thông qua chương trình, nội dung, thời gian tiến hành sinh hoạt chi bộ và những vấn đề trọng tâm chi bộ cần tập trung thảo luận. Đề nghị chi bộ cử thư ký cuộc họp (chú ý chọn đồng chí có năng lực và kinh nghiệm tổng hợp để ghi chép đầy đủ, tổng thể, chính xác ý kiến phát biểu của đảng viên, kết luận của đồng chí chủ trì hoặc nghị quyết của chi bộ).
4.3. Nội dung sinh hoạt:
Bí thư chi bộ (hoặc đồng chí được phân công chủ trì) thay mặt chi ủy điều hành buổi sinh hoạt để thực hiện các nội dung đã được chi bộ thông qua. Cụ thể là:
- Thông tin tình hình thời sự trong nước và quốc tế; phổ biến, quán triệt những chủ trương, chính sách mới của Đảng, Nhà nước, các nghị quyết chỉ thị của cấp ủy cấp trên, nhất là những vấn đề có liên quan đến thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương cơ quan, đơn vị (nội dung thông tin cần chọn lọc cho thiết thực, bảo đảm chính xác và phù hợp với đối tượng). Tình hình tư tưởng của đảng viên, quần chúng thuộc phạm vi lãnh đạo của chi bộ và những đề xuất, kiến nghị của đảng viên và quần chúng để chi bộ có biện pháp giải quyết hoặc báo cáo cấp trên.
Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của chi bộ tháng trước (nêu rõ những việc đã làm được, chưa làm được và nguyên nhân, xác định rõ trách nhiệm của tập thể và cá nhân); tình hình đảng viên thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy cấp trên và nhiệm vụ được chi bộ phân công. Thông báo ý kiến của đảng viên và quần chúng đề sự lãnh đạo của chi bộ, vai trò tiền phong gương mẫu, phẩm chất đạo đức, lối sống của đảng viên ở địa phương, cơ quan đơn vị để chi bộ tiến hành tự phê bình và phê bình, có biện pháp phát huy ưu điểm và khắc phục khuyết điểm, kịp thời ngăn chặn, đấu tranh với những biểu hiện quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực phát sinh; kịp thời động viên, biểu dương những đảng viên tiền phong gương mẫu, có thành tích xuất sắc và giáo dục, giúp đỡ những đảng viên sai phạm (nếu có).
Đề ra nhiệm vụ tháng tới: Căn cứ chương trình, kế hoạch công tác của địa phương, cơ quan, đơn vị và sự chỉ đạo của cấp uỷ cấp trên, chi bộ đề ra một số nhiệm vụ cụ thể, thiết thực để thực hiện, đồng thời phân công nhiệm vụ phù hợp với khả năng của chi ủy và đảng viên để tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ đề ra.
Chi bộ thảo luận, tham gia ý kiến về các nội dung nêu tại mục 4. 3.
Trong quá trình thảo luận, đồng chí chủ trì cần gợi ý những nội dung quan trọng để đảng viên thể hiện chính kiến của mình. Đối với những vấn đề còn có ý kiến khác nhau, chi bộ cần dành thời gian trao đổi kỹ, tạo sự thống nhất trước khi biểu quyết.
Thông qua kết luận (hoặc nghị quyết) chi bộ:
+ Đồng chí chủ trì tóm tắt ý kiến phát biểu của đảng viên và kết luận những vấn đề lớn, quan trọng mà chi bộ đã thảo luận, thống nhất;
+ Chi bộ biểu quyết thông qua kết luận (hoặc nghị quyết) của chi bộ (thư ký phải ghi rõ số đảng viên đồng ý, số không đồng ý và những ý kiến khác);
+ Chi bộ thông qua toàn văn biên bản cuộc họp chi bộ;
+ Đồng chí chủ trì và thư ký ký vào sổ ghi biên bản cuộc họp chi bộ. Sổ ghi biên bản họp chi bộ phải theo mẫu thống nhất của cấp ủy cấp trên và quản lý, lưu trữ theo quy định.
5. Ngoài các kỳ sinh hoạt chi bộ với nội dung toàn diện nêu tại mục 4, ít nhất mỗi quý một lần chi ủy lựa chọn một số nội dung cần thiết xuất phát từ yêu cầu lãnh đạo của chi bộ và phù hợp với tình hình, đặc điểm của địa phương, cơ quan đơn vị để sinh hoạt theo chuyên đề, như: Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; về chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế, việc xây dựng thôn, ấp, bản, làng, khu phố văn hoá; công tác đấu tranh phòng, chống tiêu cực và các tệ nạn xã hội trên địa bàn; công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và tạo nguồn phát triển đảng viên; việc phân công công tác cho đảng viên và quản lý đảng viên đi làm ăn sai biện pháp để nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu, tham mưu; quy trình và phương pháp để xây dựng một đề án, đề tài có chất lượng; các giải pháp nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; phương pháp và các hình thức tự nghiên cứu, học tập nâng cao trình độ, kiến thức cho cán bộ, đảng viên, v v..
II. MỘT SỐ NỘI DUNG CỤ THỂ ĐỐI VỚI TỪNG LOẠI HÌNH CHI BỘ
Ngoài những nội dung thể hiện tại mục I, các chi bộ cần bám sát chức năng, nhiệm vụ và tình hình, đặc điểm cụ thể của chi bộ mình mà tập trung thảo luận một số vấn đề sau:
1. Đối với chi bộ thôn, xóm, ấp, bản, tổ dân phố...
- Sự lãnh đạo của chi bộ và trách nhiệm của đảng viên trong việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện chủ trương công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn; việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và áp dụng các tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất; việc thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước; công tác xoá đói, giảm nghèo; hoạt động nhân đạo, từ thiện; thực hiện chính sách đối với người có công; chăm lo phát triển văn hóa - xã hội và đời sống của nhân dân…;
- Việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở và cuộc vận động xây dựng thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố, khu phố, cụm dân cư văn hóa; tình hình an ninh - chính trị, trật tự an toàn xã hội và việc giải quyết những kiến nghị, tố cáo, tranh chấp xảy ra trên địa bàn.
- Việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; công tác quản lý và sử dụng đất đai, quản lý hành chính và xây dựng đô thị, bảo đảm vệ sinh môi trường, an toàn giao thông, đấu tranh phòng chống các tệ nạn xã hội:
- Việc bồi dưỡng, giúp đỡ quần chúng, giáo dục thế hệ trẻ, tạo nguồn phát triển đảng viên ở khu dân cư; việc quản lý đối với những đảng viên đi làm ăn xa...
2. Đối với chi bộ trong cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp (trường học, bệnh viện, viện nghiên cứu...)
- Sự lãnh đạo của chi bộ và tinh thần chủ động, sáng tạo, ý thức trách nhiệm của đảng viên trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, công tác chuyên môn của cơ quan, đơn vị và chức trách nhiệm vụ được giao của từng cán bộ, đảng viên;
- Việc xây dựng và thực hiện các quy định, quy chế, nội quy của cơ quan, đơn vị tiến độ và chất lượng thực hiện nhiệm vụ (nghiên cứu, tham mưu, giảng dạy, học tập, khám chữa bệnh và thực hiện các đề án, đề tài khoa học...);
- Việc phòng, chống quan liêu, tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tiêu cực (trong thực hiện nhiệm vụ của công chức, viên chức, trong giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học, trong khám, chữa bệnh...);
- Việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở và quy định về đảng viên đang công tác thường xuyên giữ mối liên hệ với cấp ủy chi bộ và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú; - Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và việc tự nhiên cứu học tập nâng cao trình độ, kiến thức của cán bộ, đảng viên;
- Công tác tạo nguồn phát triển dảngviên..
3. Đối với chi bộ trong doanh nghiệp nhà nước
- Sự lãnh đạo của chi bộ và vai trò, ý thức trách nhiệm của đảng viên trong việc tham gia xây dựng và thực hiện nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; việc thực hiện chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước;
- Tình hình tổ chức, hoạt động của các đoàn thể quần chúng và đời sống, việc làm của người lao động;
- Việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở và trách nhiệm tham gia các hoạt động xã hội của doanh nghiệp;
- Việc phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp;
- Việc thực hiện quy định về đảng viên đang công tác thường xuyên giữ mối liên hệ với cấp ủy, chi bộ và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú;
- Việc tự nghiên cứu, học tập nâng cao trình độ, kiến thức, tay nghề của cán bộ, đảng viên, người lao động.
4. Đối với chi bộ trong doanh nghiệp có vốn của Nhà nước, doanh nghiệp có vốn Nhà nước liên doanh với nước ngoài
- Vai trò, trách nhiệm của chi bộ và đảng viên trong việc tham gia xây dựng và thực hiện nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp:
- Việc xây dựng và thực hiện nội quy, quy chế, quy định, điều lệ của doanh nghiệp; việc thực hiện các hợp đồng giao động và thỏa ước lao động...;
- Tình hình đời sống, việc làm của người lao động; mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động, giữa người Việt Nam và người nước ngoài trong doanh nghiệp (nếu có);
- Công tác xây dựng, củng cố tổ chức và chất lượng hoạt động của các đoàn thể quần chúng, nhất là tổ chức công đoàn trong doanh nghiệp công tác bồi dưỡng, giúp đỡ, tạo nguồn phát triển
đảng viên...
5. Đối với chi bộ trong doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp lỗ vốn nước ngoài
- Vai trò của chi bộ và trách nhiệm của đảng viên trong việc thực hiện nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp;
- Việc chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và thực hiện nội quy, quy chế, quy định, điều lệ của doanh nghiệp;
- Tình hình đời sống, việc làm của người lao động; việc thực hiện các hợp đồng lao động, thỏa ước lao động; mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động, giữa người Việt Nam với người nước ngoài trong doanh nghiệp (nếu có);
- Việc tuyên truyền, vận động để xây dựng, củng cố, phát triển tổ chức đảng và các đoàn thể quần chúng trong doanh nghiệp; công tác bồi dưỡng, giúp đỡ, tạo nguồn phát triển đảng viên.
6. Đối với chi bộ trong lực lượng vũ trang (quân đội, công an)
Chi ủy, chi bộ căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ chính trị của từng loại hình chi bộ để xác định nội dung sinh hoạt cho phù hợp. Chú ý một số nội dung sau:
- Sự lãnh đạo của chi bộ trong việc bồi dưỡng, giáo dục, phát huy truyền thống tốt đẹp của các lực lượng vũ trang nhân dân; xây dựng chi bộ trong sạch vững mạnh gắn với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện;
- Quán triệt cho đảng viên, cán bộ, chiến sĩ nắm vững nhiệm vụ chính trị của đơn vị thực hiện nghiêm các nghị quyết, chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên:
- Việc thực hiện điều lệnh, điều lệ và ý thức tổ chức, chấp hành kỷ cương, kỷ luật của quân đội, công an; xây dựng nền nếp chính quy, hiện đại, sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao.
III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Các tỉnh ủy thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương căn cứ hướng dẫn này và tình hình, đặc điểm cụ thể của đảng bộ, tiếp tục chỉ đạo, hướng dẫn việc cụ thể hoá nội dung và hình thức sinh hoạt cho phù hợp với từng loại hình chi bộ.
Các cấp ủy cấp trên của chi bộ tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra và hướng dẫn việc thực hiện; coi trọng việc sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm để không ngừng nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; có biện pháp chỉ đạo để phổ biến và nhân rộng kinh nghiệm của những nơi làm tốt, kịp thời uốn nắn những sai sót, lệch lạc.
Trong quá trình thực hiện, nếu có vấn đề gì chưa phù hợp, các cấp ủy kịp thời phản ánh về Ban Tổ chức Trung ương.
Hướng dẫn này được phổ biến đến các chi bộ để thực hiện./.


TRƯỞNG BAN
(đã ký)
Hồ Đức Việt